1. Thăm dò, khai thác nước dưới đất
(Điều 52 Luật tài nguyên nước)
1. Tổ chức, cá nhân thăm dò nước dưới
đất phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Tổ chức, cá nhân khai thác nước dưới
đất phải có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định
tại khoản 1, khoản 2 Điều 44 của Luật này.
3. Việc cấp giấy phép khai thác nước
dưới đất phải căn cứ vào quy hoạch tài nguyên nước, kết quả điều tra cơ bản,
thăm dò nước dưới đất, tiềm năng, trữ lượng nước dưới đất và các quy định tại
khoản 4 Điều này.
4. Hạn chế khai thác nước dưới đất tại
các khu vực sau đây:
a) Khu vực có nguồn nước mặt có khả
năng đáp ứng ổn định cho các nhu cầu sử dụng nước;
b) Khu vực có mực nước dưới đất bị
suy giảm liên tục và có nguy cơ bị hạ thấp quá mức;
c) Khu vực có nguy cơ sụt, lún đất,
xâm nhập mặn, gia tăng ô nhiễm do khai thác nước dưới đất;
d) Khu vực có nguồn nước dưới đất bị
ô nhiễm hoặc có dấu hiệu ô nhiễm nhưng chưa có giải pháp công nghệ xử lý bảo đảm
chất lượng;
đ) Khu đô thị, khu dân cư tập trung ở
nông thôn, khu, cụm công nghiệp tập trung, làng nghề đã có hệ thống cấp nước tập
trung và dịch vụ cấp nước bảo đảm đáp ứng yêu cầu chất lượng, số lượng.
5. Các hình thức hạn chế khai thác nước
dưới đất bao gồm:
a) Hạn chế về đối tượng, mục đích
khai thác;
b) Hạn chế về lưu lượng, thời gian
khai thác;
c) Hạn chế về số lượng công trình, độ
sâu, tầng chứa nước khai thác.
6. Chính phủ quy định cụ thể
việc thăm dò, khai thác nước dưới đất.