1. Trường hợp sử
dụng đất lấn, chiếm hành lang bảo vệ an toàn công trình công cộng sau khi Nhà
nước đã công bố, cắm mốc hành lang bảo vệ hoặc lấn, chiếm lòng đường, lề đường,
vỉa hè sau khi Nhà nước đã công bố chỉ giới xây dựng hoặc lấn, chiếm đất sử dụng
cho mục đích xây dựng trụ sở cơ quan, công trình, sự nghiệp, công trình công cộng
khác thì Nhà nước thu hồi đất để tra lại cho công trình mà không cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối
với diện tích đất đã lấn, chiếm.
Trường hợp đã có
điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt mà nay diện tích đất lấn, chiếm không còn thuộc hành lang
bảo vệ an toàn công trình công cộng; không thuộc chỉ giới xây dựng đường giao
thông; không có mục đích sử dụng cho trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp và
công trình công cộng khác thì người đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và
phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp sử dụng đất lấn, chiếm
đã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất cho các nông trường, lâm
trường quốc doanh, Ban quản lý rừng, trung tâm, trạm, tại, công ty nông nghiệp,
lầm nghiệp thì thực hiện xử lý theo quy định như sau:
-
Trường
hợp đang sử dụng diện tích đất lấn, chiếm thuộc quy hoạch bảo vệ và phát triển
rừng đặc dụng, rừng phòng hộ thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo thu hồi đất
đã lấn, chiếm để giao cho Ban quản lý rừng quản lý, sử dụng đất. Người đang sử
dụng đất lấn, chiếm được Ban quản lý rừng xem xét giao khoán bảo vệ, phát triển
rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Trường hợp không
có Ban quản lý rừng thì người đang sử dụng đất lấn, chiếm được Nhà nước giao đất
để sử dụng vào mục đích bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ và được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
-
Trường
hợp đang sử dụng diện tích đất lấn, chiếm thuộc quy hoạch sử dụng đất cho mục
đích xây dựng công trình hạ tầng công cộng thì ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo
thu hồi đất đã lấn, chiếm để giao đất đó cho chủ đầu tư khi triển khai xây dựng
công trình đó.
Người đang sử dụng
đất vi phạm được tạm thời sử dụng cho đến khi Nhà nước thu hồi đất nhưng phải
giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất và phải kê khai đăng ký đất đai theo quy định;
-
Trường
hợp lấn, chiếm đất và nay đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp hoặc
làm nhà ở và không thuộc quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, rừng
phòng hộ, xây dựng công trình hạ tầng công cộng thì người đang sử dụng đất được
xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất.
Trường hợp lấn,
chiếm đất kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014,
đang sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp và hiện nay diện tích đất này vẫn
được xác định giao cho nông trường, lâm trường quản lý, sử dụng thì ủy ban nhân
dân cấp tỉnh thu hồi đất lấn, chiếm để trả lại cho nông trường, lâm trường.
-
Trường
hợp lấn, chiếm đất chưa sử dụng hoặc tự ý chuyển mục đích sử dụng đất thuộc
trường hợp phải xin phép theo quy định của pháp luật về đất đai mà chưa được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thì thực hiện xử lý như sau:
-
Trường
hợp đang sử dụng đất thuộc quy hoạch sử dụng đất cho các mục đích quy định tại
Điều 61 và Điều 62 của Luật Đất đai thì Nhà nước thu hồi đất trước khi hực hiện
dự án, công trình đó.
Người đang sử dụng
đất vi phạm được tạm thời sử dụng cho đến khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng phải
giữ nguyên hiện trạng đang sử dụng đất và phải kê khai đăng ký đất đai heo quy
định;
-
Trường
hợp đang sử dụng đất không thuộc trường hợp quy định tại Điểm a Khoản này thì
ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất;
người đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
-
Hộ
gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp do tự khai hoang mà đất đó phù
hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền duyệt,
không có tranh chấp thì được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất theo hạn mức
do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định; nếu vượt hạn mức do ủy ban nhân dân cấp
tình quy định thì diện tích vượt quá hạn mức phải chuyển sang thuê.
-
Người
đang sử dụng đất ổn định trong các trường hợp quy định tại Khoản 1, Điểm a và
Điểm c Khoản 2, Điểm b Khoản 3 trên mà không có tranh chấp thì được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất theo quy định như sau:
-
Trường
hợp thửa đất có nhà ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức công nhận
đất ở tại địa phương nếu đã sử dụng đất ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm
1993; diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở tại địa phương nếu
đã sử dụng đất ổn địch từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7
năm 2014;
-
Trường
hợp thửa đất có công trình xây dựng không phải là nhà ở thì được công nhận theo
quy định;
-
Đối
với phần diện tích đất đang sử dụng được xác định là đất nông nghiệp thì được
công nhận quyền sử dụng đất theo chế độ như quy định đối với trường hợp tài
Khoản 5 Điều 20 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP;
-
Người
sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Khoản này phải thực hiện nghĩa vụ
tài chính theo quy định của pháp luật.