-
Đất
đang cho thuê, thế chấp mà Nhà nước thu hồi theo quy định tại Điều 62 và Điều
62 của Luật Đất đai thì hợp đồng thuê đất, hợp đồng thế chấp bằng quyền sử dụng
đất bị chấm dứt. Việc xử lý quyền và nghĩa vụ có liên quan đến quyền sử dụng
đất giữa các bên trong hợp đồng thuê đất, hợp đồng thế chấp thực hiện theo quy
định của pháp luật về dân sự.
Đất đang cho
thuê thuộc trường hợp bị thu hồi theo quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và
i khoản 1 Điều 64 của Luật Đất đai thì hợp đồng thuê đất bị chấm dứt và việc
thu hồi đất thực hiện theo quy định sau:
-
Trường
hợp bên cho thuê đất là người gây ra hành vi vi phạm pháp luật về đất đai thì
Nhà nước thu hồi đất. Bên cho thuê đất phải bồi thường thiệt hại cho bên thuê
đất theo quy định của pháp luật về dân sự;
-
Trường
hợp người gây ra hành vi vi phạm pháp luật về đất đai không phải là bên cho
thuê đất hoặc bên thuê đất thì Nhà nước thu hồi đất và người gây ra hành vi vi
phạm có trách nhiệm bồi thường cho bên bị thiệt hại theo quy định.
-
Khi
Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i Khoản 1
Điều 64 của Luật Đất đai mà quyền sử dụng đất đó đang được thế chấp thì hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị chấm dứt; bên thế chấp phải hoàn trả khoản
vay cho bên nhận thế chấp theo quy định của pháp luật về dân sự và pháp luật
khác có liên quan.
-
Đất
do người sử dụng đất là cá nhân cho thuê, thế chấp mà cá nhân đó chết nhưng
không có người thừa kế thì Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có trách nhiệm giải
quyết các quyền và nghĩa vụ có liên quan đến thửa đất thei quy định của pháp
luật; hợp đồng thuê đất, hợp đồng thế chấp bị chấm dứt và quyền sử dụng đất
được giải quyết như sau:
-
Trường
hợp thuê đất thì bên thuê đất được Nhà nước tiếp tục cho thuê đất trong thời
hạn còn lại của hợp đồng thuê đất đã ký kết;
Trường hợp thế chấp bằng quyền
sử dụng đất thì xử lý quyền sử dụng đất thế chấp theo quy định của pháp luật về
giao dịch bảo đảm.