Số địa chính được
lập để ghi nhận kết quả đăng ký, làm cơ sở để xác định tình trạng pháp lý giám
sát, bảo hộ các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn
liền với đất, người được Nhà nước giao quản lý đất theo quy định của pháp Luật
Đất đai.
Nội dung sổ địa
chính bao gồm các dữ liệu sau
-
Dữ
liệu về số hiệu, địa chỉ, diện tích của thửa đất hoặc đối tượng chiếm đất không
tạo thành thửa đất;
-
Dữ
liệu về người sử dụng đất, người được Nhà nước giao quản lý đất;
-
Dữ
liệu về quyền sử dụng đất, quyền quản lý đất;
d) Dữ liệu về
tài sản gắn liền với đất (gồm cả dữ liệu về chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất);
đ) Dữ liệu tình
trạng pháp lý về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, quyền
quản lý đất;
Dữ liệu về sự
thay đổi trong quá trình sử dụng đất, sở hữu tài sản gắn liền với đất.
Sổ địa chính được
lập ở dạng số, được Thủ tướng cơ quan đăng ký đất đai ký duyệt bằng chữ ký điện
tử theo quy định và được lưu giữ trong cơ sở dữ liệu địa chính.
Đối với địa
phương chưa xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính, chưa có điều kiện lập sổ địa
chính (điện tử) thì thực hiện theo quy định sau đây:
Đối với địa
phương đã lập sổ địa chính dạng giấy theo quy định tại Thông tư số
09/20074/TT-BTNMT ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính thì tiếp tục cập
nhật vào sổ địa chính dạng giấy đang sử dụng; nội dung thông tin ghi vào sổ
theo hướng dẫn sửa đổi, bổ sung;
Đối với địa
phương chưa lập sổ địa chính dạng giấy theo quy định tại Thông tư số
09/2007/TT-BTNMT ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính thì Văn phòng đăng
ký đất đai có trách nhiệm in trang sổ địa chính (điện tử) chưa ký sổ ra dạng giấy
để thực hiện ký, đóng dấu của Văn phòng đăng ký đất đai, Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai phục vụ cho công tác quản lý thường xuyên.